Văn hoá đạo đức là một hệ giá
trị, chuẩn mực về đạo đức, nó được hình thành và phát triển trong đời sống xã
hội; được xã hội thừa nhận, lĩnh hội, bảo vệ và lan truyền trong cộng
đồng. Mỗi cộng đồng xã hội có một hệ giá trị văn hoá đạo đức, tạo nên bản sắc
riêng, làm nền tảng cho sự tồn tại và phát triển đời sống tinh thần của
mình. Văn hoá đạo đức phản ánh bản chất người, nuôi dưỡng phẩm hạnh con
người trong mọi thời đại, giữ vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần xã
hội, đó là sự phát triển
bản chất người theo tiêu chí chân - thiện - mỹ và hiện thực hóa
nó thông qua hoạt động sống của con người trong tiến trình lịch sử.
Văn hoá đạo đức của cán bộ trẻ ở nước ta hiện nay có
những giá trị tiêu biểu gắn với từng “mẫu hình con người” - Chuẩn mực văn hóa đạo đức của cán bộ trẻ đại diện cho từng lĩnh vực công tác.
Nhưng, tựu chung lại chuẩn mực văn hóa đạo đức của cán bộ trẻ hiện nay bao gồm:
Có trình độ văn hóa; “trung với Đảng, với nước, hiếu với dân”; am
hiểu pháp luật; thành thạo nghiệp vụ; “cần kiệm liêm chính, chí công vô
tư”; cẩn thận, nhẫn nại, tận tâm với công việc, phục vụ
nhân dân; gương mẫu “nói đi đôi làm”; không hiếu
danh; không kiêu ngạo. Chuẩn mực văn hóa đạo đức đó của cán bộ trẻ là “cái
gốc của cây, ngọn nguồn của sông nước” để hoàn thành nhiệm vụ được Đảng và nhân
dân giao phó. Đúng như lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
“Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng
không lãnh đạo được nhân dân”(1). Chuẩn mực văn hóa đạo đức đó của
cán bộ trẻ sẽ tạo ra sức mạnh tổng hợp - nhân tố quyết định mọi sự thành công
của cán bộ trẻ hiện nay.
Nhận thức rõ về vị trí, vai trò văn hóa đạo
đức của cán bộ trẻ đối với sự phát triển và nhiệm vụ được giao, trong
những năm qua, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp, các ngành, người đứng đầu cơ quan,
đơn vị đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện việc bồi dưỡng văn hóa
đạo đức cho cán bộ trẻ đạt được nhiều kết quả quan trọng. Biểu hiện ở đa
số cán bộ trẻ đã tích cực học tập nâng cao trình độ văn hóa; có ý thức và tự giác chấp hành pháp
luật; thành thạo nghiệp vụ; tận tâm với công việc, phục vụ nhân dân; ra
sức xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, bồi dưỡng
văn hóa đạo đức cho cán bộ trẻ còn một số hạn chế, bất cập, đó là một số cán bộ
trẻ thiếu nhẫn nại, chưa cẩn thận trong công việc; thiếu sự thống nhất giữa trách nhiệm pháp lý, trách
nhiệm chính trị và trách nhiệm đạo đức trong thực thi công vụ; còn
có biểu hiện hiếu danh, kiêu ngạo, bè phái, thiếu gương
mẫu nói không đi đôi làm.
Mặt khác, trước diễn biến của tình hình quốc
tế, khu vực, trong nước, yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước, hội nhập quốc
tế và bảo vệ Tổ quốc càng đặt ra yêu cầu cao về phẩm chất và năng lực của cán
bộ trẻ. Đòi hỏi phải bồi dưỡng chuẩn mực văn hóa đạo đức cho cán bộ trẻ là yêu
cầu khách quan. Đây vừa là nội dung, vừa là định hướng để cán bộ trẻ phát triển
toàn diện cả về phẩm chất, nhân cách và đạo đức theo tiêu chí chân
- thiện - mỹ. Đồng thời, việc bồi dưỡng chuẩn mực văn hóa đạo đức cho
cán bộ trẻ cũng là biện pháp nhằm khắc phục những hạn chế của họ nêu trên. Vì
vậy, để bồi dưỡng văn hóa đạo đức cho cán bộ trẻ đáp ứng với yêu cầu trong tình
hình mới cần thực hiện một số nội dung sau đây:
Một là, tăng cường bồi dưỡng chủ nghĩa yêu
nước cho cán bộ trẻ.
Yêu nước là lý tưởng thiêng liêng, lẽ sống cao
đẹp, là tình cảm chủ đạo và định hướng giá trị cho hành động và cách ứng xử của
con người Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Dân ta có một
lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay,
mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn
sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn
chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”(2). Đó là hệ thống quan
điểm, tư tưởng, tình cảm, ý chí và hành động của con người đối với đất
nước, được hình thành và phát triển lâu dài trong lịch sử dựng nước, giữ
nước của dân tộc Việt Nam. Ngày nay, lòng yêu nước của nhân dân ta đã được nâng lên tầm cao
mới - Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam.
Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam là
sự thống nhất chặt chẽ giữa nội dung và hình thức biểu
hiện. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam gồm các tiêu chí tiêu
biểu: Ý thức bảo vệ chủ quyền non sông đất nước; có tinh thần
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; có ý chí tự chủ, tự lực, tự
cường; có lòng tự hào, tự tôn dân tộc, không chịu khuất phục trước kẻ
thù, không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ; quyết tâm bảo vệ bản sắc
văn hóa dân tộc Việt Nam; có tình yêu quê hương, xứ sở, đất nước; tình yêu người
thân, đồng bào, đồng chí và sự gắn bó, đoàn kết giữa những con người
có cùng nguồn tộc; ra sức hành động cống hiến sức lực, trí tuệ, sẵn sàng
xả thân vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Chủ nghĩa yêu nước được hình thành, bồi
đắp và phát triển xuyên suốt chiều dài lịch sử dân tộc Việt Nam, trở thành
chuẩn mực cao nhất trong thang giá trị văn hóa đạo đức là sợi chỉ đỏ trở thành động lực tinh thần to lớn, tạo ra sức mạnh vô địch góp phần vào sự trường tồn của dân tộc
và sự phồn vinh của đất nước. Vì vậy, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam cần phải
được thường xuyên khơi dậy, bồi đắp và biến thành hành động cụ thể, thành các
phong trào xã hội thiết thực, nếu không nó sẽ bị phai mờ theo thời gian.
Bồi dưỡng chủ nghĩa yêu nước Việt
Nam cho cán bộ trẻ sẽ giúp họ trau dồi về phẩm chất, năng
lực, đạo đức, lối sống, niềm tin, ý chí quyết tâm, tình cảm và hoàn thiện nhân
cách, thôi thúc họ hành động tự giác, thực hiện mục tiêu, lý tưởng cách mạng,
hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; để họ hiểu sâu sắc hơn và hành động đúng đắn
về tình yêu quê hương, đất nước và con người; sự gắn bó, cố kết cộng đồng,
hướng về nhân dân, thực sự “lấy dân làm gốc”; nâng cao ý thức bảo vệ bản sắc
văn hóa dân tộc, sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, dân tộc, về độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội; nâng cao lòng tự hào, tự tôn dân tộc; ý thức xây dựng đất
nước phát triển phồn vinh, hạnh phúc; kế thừa, tiếp thu và phát huy truyền
thống yêu nước của gia đình, dòng họ, quê hương, lòng yêu thương con
người - đó là cái gốc văn hóa đạo đức của cán bộ trẻ hiện nay.
Mục đích bồi dưỡng chủ nghĩa yêu nước Việt Nam
cho cán bộ trẻ để họ nêu cao hơn nữa tinh thần, trách nhiệm gắn bó với cơ quan,
đơn vị, với đồng chí, đồng đội, đồng nghiệp; giải quyết hài hòa giữa tinh thần
yêu nước chân chính với tinh thần quốc tế vô sản, nhằm phát huy hơn nữa sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh; để cán bộ trẻ còn làm theo lời ước nguyện của Người là:
“Làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng
bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”(3).
Bồi dưỡng chủ nghĩa yêu
nước cho cán bộ trẻ phải hướng và gắn với yêu chủ nghĩa xã hội, vì đó
là sức mạnh cội nguồn của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam thời
đại mới. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Yêu Tổ quốc, yêu
nhân dân phải gắn liền với yêu chủ nghĩa xã hội, vì có tiến lên chủ
nghĩa xã hội thì nhân dân mình mỗi ngày một no ấm thêm, Tổ quốc mỗi ngày một
giàu mạnh thêm”(4). Nếu không thực hiện điều đó thì “nước mất, nhà
tan”, bởi nước độc lập thì dân tộc mới độc lập, con người mới được giải phóng
và có tự do, ấm no, hạnh phúc đích thực - điều đó chỉ có được dưới chế độ xã hội chủ nghĩa.
Hai là, bồi dưỡng tình yêu thương và quan tâm đến con người.
Yêu thương con người là đức
tính tốt đẹp, là truyền thống quý báu của nhân dân Việt Nam.
Lòng yêu thương con người được lan tỏa trong xã hội sẽ giúp cho cuộc
sống tươi đẹp, hạnh phúc hơn và đáng sống; làm cho con người gần nhau hơn, là nguồn động
lực tinh thần để giúp người đón nhận tình yêu thương đó có thêm nghị lực, niềm
tin vào cuộc sống, vượt qua khó khăn để đạt được niềm hạnh phúc trong cuộc
sống. Vì thế, cần làm cho lòng yêu thương con người của cán bộ trẻ không ngừng
phát triển và lan tỏa trong xã hội để tạo ra sự quan tâm với nhau, mở lòng,
chăm sóc, bao dung, đồng cảm, chia sẻ, lo lắng, giúp đỡ, vị tha, thấu hiểu với
từng hoàn cảnh của mỗi con người, nhìn nhận xã hội khách quan, công bằng gắn
kết cùng nhau phát triển. Đồng thời, cán bộ trẻ cần phải tránh tạo ra ngăn
cách, tính ích kỷ, nhỏ nhen, tính vô cảm và vô tâm trước lỗi đau khổ của người
khác.
Bồi dưỡng tình yêu thương và quan tâm đến con người cho cán bộ trẻ, trước
hết và trực tiếp là việc chăm sóc ông, bà, bố, mẹ, anh, chị, em và những
người thân trong gia đình, dòng họ; quan tâm, chăm sóc đồng chí, đồng đội,
những người hàng xóm, láng giềng; tiếp đến là những người già neo đơn, trẻ em
cơ nhỡ, những người yếu thế trong xã hội, những người ở vùng sâu, vùng xa, biên
giới, hải đảo, thương binh, bệnh binh, thân nhân các gia đình liệt sỹ, gia đình
chính sách, người có công với cách mạng.
Lòng yêu thương con người của cán bộ trẻ không
đòi hỏi về vật chất đơn thuần mà thể hiện ở những điều bình dị trong cuộc sống
với tinh thần tự nguyện, tự giác thông qua việc chăm sóc ông bà, bố mẹ khi ốm
đau, nhường nhịn em nhỏ, sẵn sàng giúp đỡ động viên mọi người khi gặp khó khăn;
tình nguyện, quyên góp giúp đỡ, ủng hộ đồng bào bị thiên tai, lũ lụt; thăm hỏi
gia đình thương binh, liệt sĩ; giúp đỡ nạn nhân chất độc da cam; hiến máu nhân
đạo; biết tha thứ khi người khác mắc lỗi; biết hy sinh bản thân vì người khác;
có lòng nhân ái, vị tha trong cuộc sống và trong công tác.
Giáo dục lòng yêu
nước cho cán bộ trẻ có lòng thương yêu
con người để họ không chỉ đối với người thân yêu, gần gũi, mà còn có tình
thương đối với nhân dân gắn bó với nhân
dân, vì nhân dân phục vụ, vì nhân
dân quên mình, phải chăm lo cuộc
sống của nhân dân, giúp đỡ nhân dân và phải “đoàn kết một lòng, học hỏi, giúp đỡ lẫn nhau”(5). Đồng
thời, hướng việc giáo dục lòng yêu
nước, thương dân phải làm cho cán bộ trẻ thấm nhuần tư
tưởng “dân là gốc”, là nguồn sức mạnh vô địch, từ đó, phải khơi
dậy tư tưởng đó để mỗi cán bộ, không chỉ ở tư tưởng, tình cảm, ý
chí mà quan trọng là phải thể hiện ở hành động thông qua cuộc
sống hàng ngày và thực tiễn công tác. Thực hiện theo đúng lời dạy của Chủ
tịch Hồ Chí Minh: “Phải biết trọng nhân dân. Tôn trọng có nhiều cách,
không phải ở chỗ chào hỏi kính thưa có lễ phép mà đủ. Không được phung phí nhân
lực vật lực của dân. Khi huy động nên vừa phải, không nên nhiều quá lãng phí vô
ích. Phải khôn khéo tránh điều gì có hại cho đời sống nhân dân. Biết giúp đỡ
nhân dân cũng là biết tôn trọng dân”(6). Vì thế, cán bộ trẻ
phải thường xuyên sâu sát, quan tâm tìm hiểu tâm tư, nguyện
vọng, chia sẻ niềm vui, thấu hiểu nhu cầu và chăm lo đến lợi
ích chính đáng của nhân dân.

Hơn thế nữa, cán bộ trẻ không
chỉ động viên, mà phải biết phát huy vai trò của nhân dân, khơi dậy tinh thần tập thể, chủ nghĩa anh hùng
cách mạng, những phẩm chất tốt đẹp trong nhân dân, vận động nhân dân hăng
hái lao động và xây dựng xã hội mới tiến bộ, phát triển, phồn vinh
và hạnh phúc. Vì, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân.
Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến
quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử
ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành
và lực lượng đều ở nơi dân”(7). Cho nên, cán bộ trẻ cần phải biết phát huy vai trò của
nhân dân, động viên nhân dân tham gia đông đảo vào công cuộc xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc.
Cán bộ trẻ coi trọng và khơi dậy tình nhân ái, khoan dung trong cơ quan, đơn vị và trong nhân dân,
đây là sự nối tiếp các giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam, cần phải
phát triển lên tầm cao mới. Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã dạy: “Ta thương cha mẹ ta, mà còn phải thương cha mẹ
người, phải cho mọi người đều biết thương cha mẹ”(8). Đồng thời, cán bộ trẻ phải có lòng tin tưởng vào đồng chí, đồng
đội và nhân dân, kể cả đối với những người mắc vào sai lầm, khuyết điểm.
Người nhắc nhở: “Mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng. Ta phải biết
làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa Xuân và phần xấu bị
mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng”(9). Đối với những
người lầm đường, lạc lối, người có thói hư, tật xấu cán bộ trẻ phải dùng tình
thân ái mà cảm hóa họ. Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã chỉ rõ: “Đối với những người có thói hư tật xấu, trừ hạng
người phản lại Tổ quốc và nhân dân, ta cũng phải giúp họ tiến bộ bằng cách làm
cho cái phần thiện trong con người nảy nở để đẩy lùi phần ác, chứ không phải
đập cho tơi bời. Lấy gương người tốt, việc tốt để hàng ngày giáo dục lẫn nhau
là một trong những cách tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng các tổ chức cách mạng,
xây dựng con người mới, cuộc sống mới”(10). Đó là thái độ trân
trọng, là cái nhìn rộng lượng của cán bộ trẻ để tìm ra điểm chung, hoà đồng để
mọi người cùng phát triển.
Cán bộ trẻ cần phải khắc phục thiên kiến, hẹp
hòi, ích kỷ, tính tự kiêu, tự đại, tự mãn trong công tác và trong cuộc sống
hàng ngày. Chủ tịch Hồ Chí
Minh luôn luôn nhắc nhở mỗi chúng ta rằng: “Tự kiêu, tự đại tức là thoái
bộ. Sông to, biển rộng, thì bao nhiêu nước cũng chứa được, vì độ lượng nó rộng
và sâu. Cái chén nhỏ, cái đĩa cạn, thì một chút nước cũng đầy tràn, vì độ lượng
nó hẹp nhỏ. Người mà tự kiêu, tự mãn, cũng như cái chén, cái đĩa cạn”(11).
Thực hiện điều đó sẽ giúp cho cán bộ trẻ ngày
càng phát huy được tình nhân ái, khoan dung để mọi người trong cơ quan,
đơn vị mình phát triển bền vững.
Ba là, bồi dưỡng cái“thiện”, loại trừ cái “ác” trong cán bộ trẻ.
Cái “thiện” và
cái “ác” thường nảy sinh trong mối quan
hệ “công - tư” và biểu hiện trong quá trình giải
quyết vấn đề về lợi ích, giữa lợi ích tập thể và lợi
ích cá nhân. Cái “thiện” trong mỗi cán bộ trẻ là tình
thương, lòng nhân nghĩa, sự bao dung, là lẽ sống “mình vì mọi người”, trung
thực, thẳng thắn, sẵn sàng đấu tranh cho lẽ phải, là tinh thần hăng say lao
động, là sống có lý tưởng cao đẹp. Cái “ác” trong bản thân mỗi cán bộ
trẻ thường là tính hẹp hòi, đố kỵ, vị kỷ, dối trá, lòng tham, bất
nhân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Thiện và ác là hai cái mâu
thuẫn, luôn luôn đấu tranh gay gắt với nhau. Cuộc đấu tranh ấy phải trường kỳ
và gian khổ, nhưng cuối cùng thì ác nhất định bại, thiện nhất định thắng”(12).
Vì vậy, mỗi cán bộ trẻ không chỉ thực hành “cần kiệm liêm chính, chí
công vô tư”, loại bỏ quan liêu, mệnh lệnh, tham ô, lười biếng mà còn
phải rèn luyện để cái “thiện” phát triển và cái “ác” mất đi. Mặt khác, trong
mỗi công việc, cán bộ trẻ đều phải hướng thiện, phải rộng
lượng, khoan thứ; sự tự phấn đấu, tu dưỡng và hoàn thiện nhân cách là
những nhân tố tích cực, chủ động trong xây dựng môi trường xã hội, để kết hợp
giữa cá nhân, tập thể cùng toàn xã hội hành “thiện”, bài “ác”, đó là
nền tảng của sự tiến bộ để xây dựng xã hội mới xã hội chủ nghĩa đi đến
thành công.
Bốn là, bồi dưỡng tư tưởng “bình đẳng xã hội” và
“công bằng xã hội” cho cán bộ trẻ.
Bình đẳng xã hội là một khái niệm có
tính lịch sử, đó là tình trạng mà trong đó tất cả mọi người hay một
nhóm người trong một xã hội cụ thể, có địa vị, tình trạng pháp lý tương tự
nhau ở những khía cạnh như các quyền dân sự, tự do ngôn luận, quyền
sở hữu và tiếp cận bình đẳng đối với hàng hóa, an sinh và dịch vụ xã hội. Tuy nhiên, mức độ, phạm vi,
điều kiện khác nhau thì bình đẳng xã hội cũng khác nhau. Vì thế, trong mọi
xã hội người ta thường đề cập đến bất bình đẳng xã hội như bất bình
đẳng dân tộc, bất bình đẳng giai cấp, bất bình đẳng giới tính, bất bình đẳng
thế hệ, hoặc sự thiếu công bằng giữa người dân và người có chức có quyền.
|
Hội thảo với
chuyên đề "Giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa cho
thế hệ trẻ theo Di chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh" được tổ chức chiều ngày
18/5/2019 tại Hà Nội
|
Bình đẳng xã hội và công bằng xã hội chỉ thực
sự có được trong chế độ xã hội mới xã hội chủ nghĩa vì ở chế độ đó giải quyết
hài hòa giữa nghĩa vụ và quyền lợi, tạo nên các cách ứng xử, các quan hệ giữa
cá nhân và cộng đồng, giữa con người và tự nhiên nhằm thúc đẩy những nhân tố
tiến bộ xã hội xuất hiện nhằm tạo ra công bằng xã hội. Vì thế, phải bồi dưỡng
tư tưởng “bình đẳng xã hội” và “công bằng xã hội” cho cán bộ trẻ. Tuy vậy, tư
tưởng về công bằng và bình đẳng xã hội được thể hiện một cách sinh động, linh
hoạt trong những hoàn cảnh, thời kỳ và tình huống cụ thể khác nhau của quá trình
xây dựng đất nước. Khi nói đến công bằng xã hội, thường gắn với bình đẳng xã
hội. Công bằng xã hội chính là sự bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi trong mối
quan hệ cụ thể. Mỗi cán bộ trẻ phải hiểu rõ: “Nhân dân có nghĩa vụ, đồng thời
có quyền lợi. Nhân dân có quyền tự do tư tưởng, tự do tổ chức, tự do tín
ngưỡng, v.v. có quyền ứng cử và bầu cử. Đàn bà có mọi quyền lợi như đàn ông.
Các dân tộc trong nước đều có quyền lợi như nhau”(13). Vì thế, mỗi
cán bộ trẻ đều phải nhận rõ mình là người chủ nước nhà và đã có quyền
hạn làm chủ, thì phải làm trọn nghĩa vụ của người chủ để thực hiện công
bằng và bình đẳng xã hội.
Đồng thời, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp, người
đứng đầu cần làm cho cán bộ trẻ thấy
rõ sự công bằng và bình đẳng xã hội được bảo đảm bằng những cơ sở
vững chắc, đó là “Chủ nghĩa xã hội là công bằng hợp lý: Làm nhiều hưởng nhiều,
làm ít hưởng ít, không làm thì không được hưởng. Những người già yếu hoặc tàn
tật sẽ được Nhà nước giúp đỡ chăm nom”(14) và do “Nhà nước ta
ngày nay là của tất cả những người lao động… Chúng ta có quyền và có đủ điều
kiện để tự tay mình xây dựng đời sống tự do, hạnh phúc cho mình. Nhân dân lao
động là những người chủ tập thể của tất cả những của cải vật chất và văn hóa,
đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ”(15) đúng như lời Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra. Mỗi cán bộ trẻ cần phải phát huy mọi khả
năng của mình cùng vươn tới mục tiêu, lý tưởng cao đẹp đó là đất nước
được độc lập, tự do, phát triển nhân dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Năm là, giáo dục tinh thần thượng tôn pháp luật cho cán
bộ trẻ.
Trong các quan hệ đạo đức mới ở thời đại
mới, đạo đức phải luôn gắn với pháp luật. Trong Nhà nước
ta, pháp luật và dân chủ luôn đi đôi với nhau vừa phát huy vai trò của chính
quyền các cấp, vừa phát huy vai trò của nhân dân để họ được làm chủ vận mệnh
của mình, bởi vì pháp luật luôn là “bà đỡ” của dân chủ. Mọi quyền dân chủ của
người dân phải được thể chế hóa bằng hiến pháp và pháp luật, ngược lại hệ thống
pháp luật phải bảo đảm cho quyền tư do dân chủ của người dân được thực hiện trong
thực tế. Nhà nước phải hình thành các thiết chế dân chủ để thực thi quyền làm
chủ của người dân. Cho nên, cán bộ trẻ phải có tinh thần thượng tôn pháp
luật, phải hết lòng phục vụ nhân dân với tinh thần “việc gì lợi cho dân,
thì phải làm cho kỳ được. Việc gì hại cho dân, thì phải hết sức tránh”(16).
Thông qua việc giáo dục tinh thần thượng tôn
pháp luật cho cán bộ trẻ góp phần nâng cao trình độ, bồi dưỡng ý thức làm chủ
và tích cực hóa quyền công dân; phải sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp
luật; gương mẫu thực hiện pháp luật, phải bảo đảm được tính vô tư, khách quan,
công bằng, bình đẳng với mọi công dân trước pháp; không lợi dụng chức vụ, quyền
hạn của mình để đứng ngoài, đứng trên pháp luật; tránh bè phái, cảm tình
riêng trong thực thi công vụ, điều đó không chỉ làm thiệt hại đến lợi
ích, sự tiến bộ xã hội, mà trực tiếp tổn hại đến phẩm giá, làm
suy thoái đạo đức, lối sống của cán bộ trẻ. Cán bộ trẻ phải hiểu và phát triển đạo đức cách mạng, “biết hưởng
quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm”(17) để
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đưa đất nước phát triển phồn vinh, hạnh phúc.
Bồi dưỡng văn hóa đạo đức cho cán bộ trẻ trong
tình hình hiện nay có ý nghĩa sâu sắc trong xây dựng Đảng về đạo đức. Vì
thế, cần phải phát huy các giá trị văn hóa đạo đức để định hướng các quan
hệ đạo đức, ứng xử của cán bộ trẻ theo hướng chân - thiện -
mỹ. Mỗi cán bộ trẻ cần phải giữ chủ nghĩa cho vững và ít lòng ham
muốn về vật chất, rèn luyện đạo đức, trau dồi kiến thức và tài năng
để phục vụ nhân dân, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới./.
---
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập,
tập 5, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, H, 2011, t.5, tr.292.
(2) (6) (7) (8) (11) (16) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sdđ,
t. 6, tr.171, 458, 232, 126, 130, 432.
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sdđ, t.4, tr.187.
(4) (14) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sdđ, t.11, tr.401,
404.
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sdđ, t.14, tr.435.
(9) (10) (17) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sdđ, t.15,
tr.672, 672, 293.
(12) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sdđ, t.10, tr.454.
(13) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sdđ, t. 8, tr.264.
(15) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sdđ, t.13, tr.66.