Nhân lễ giỗ 722 năm đức Thánh Trần Hưng Đạo: Lẽ muôn đời: Lấy dân làm gốc
Hưng Đạo Đại Vương là tước vị cao nhất của Trần Quốc Tuấn do Hoàng
đế Trần Anh Tông phong cho ông khi ông vừa mới qua đời, để tôn vinh "công
nghiệp hiếm có" mà ông đã tạo dựng trong đời Trùng Hưng, cũng như trong
lịch sử 175 năm vương triều Trần.
Một trong 10 vị tướng hàng đầu của nhân loại
Sách "Đại Việt sử ký toàn thư" cho biết "Mùa thu,
tháng 8, ngày 20 (tức ngày 3-9-1300), Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn mất ở phủ
đệ Vạn Kiếp, được tặng Thái sư Thượng phụ Thượng Quốc công Nhân Vũ Hưng Đạo Đại
Vương". Sách còn cho biết thêm là tên tuổi của ông lừng danh và linh
thiêng đến mức người phương Bắc "thường gọi ông là An Nam Hưng Đạo Vương
mà không dám gọi tên". Ngày giỗ ông đã trở thành ngày quốc giỗ, ngày giỗ
Cha của mọi người, mọi nhà trong các cộng đồng cư dân thuộc quốc gia dân tộc
Việt Nam. Tên tuổi của ông đời đời rạng rỡ cùng hào khí Đông A, văn minh Đại
Việt.
Theo Phan Huy Chú trong sách "Lịch triều hiến chương loại
chí" thì Trần Quốc Tuấn ngay từ thuở ấu thơ đã có tướng là bậc kinh bang
tế thế; khi lớn lên "dung mạo hùng vĩ, thông minh hơn người, học rộng các
sách, tài kiêm văn võ". Trần Quốc Tuấn được vua Trần Nhân Tông phong làm
Quốc công tiết chế, thống lĩnh toàn quân. Ông biên soạn các sách "Binh gia
diệu lý yếu lược", "Vạn Kiếp tông bí truyền thư" để dạy cho các
tướng sĩ dưới quyền. Ông còn viết "Hịch tướng sĩ" động viên khích lệ
toàn quân nhất tề xông lên "Sát Thát" (tiêu diệt giặc Mông Thát) và
đã lãnh đạo quân dân Đại Việt tiến hành các cuộc chiến tranh nhân dân thần
thánh hai lần đại phá các đạo quân xâm lược vô cùng hung hãn và tàn bạo vào các
năm 1285, 1288. Những chiến công này đã bảo vệ toàn vẹn giang sơn xã tắc, bảo
đảm cho toàn dân một cuộc sống thanh bình để dựng xây quê hương, đất nước
"non sông muôn thuở vững âu vàng" và góp phần ngăn chặn hiểm họa bị
nô dịch của đại đế chế Nguyên Mông. Đây là những kỳ công vĩ đại nhất trong lịch
sử chống ngoại xâm vô cùng oanh liệt của dân tộc Việt Nam ta và linh hồn của
những kỳ công này - Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn không chỉ trở thành vị
tướng kiệt xuất của quân dân nhà Trần, anh hùng huyền thoại muôn đời của dân
tộc của Việt Nam, mà còn được thế giới tôn vinh là một trong mười vị tướng hàng
đầu của nhân loại.
Ảnh: Tượng đài Đức Thánh Trần Hưng Đạo tại quảng trường 3-2 tỉnh Nam Định
Tin dân và vì dân làm nên đại thắng
Ngày 24 tháng 6 năm Canh Tý (tức ngày 11-7-1300), vua Trần Anh
Tông đến thăm Hưng Đạo Đại Vương đang ốm nặng tại nhà riêng, nhân được hỏi về
kế sách đánh giặc giữ nước, ông nói: "Vừa rồi Toa Đô, Ô Mã Nhi bốn mặt bao
vây. Vì vua tôi đồng tâm, anh em hòa mục, cả nước nhà góp sức, giặc phải bị
bắt. Đó là trời xui nên vậy. Đại khái nó cậy trường trận, ta dựa vào đoản binh.
Dùng đoản [binh] chế trường [trận] là sự thường của binh pháp. Nếu chỉ thấy
quân nó kéo đến như lửa, như gió thì dễ chế ngự. Nếu nó tiến chậm như cách tằm
ăn, không cầu thắng chóng, thì phải chọn dùng tướng giỏi, xem xét quyền biến,
như đánh cờ vậy, tùy thời tạo thế, có được đạo quân một lòng như cha con mới
dùng được. Vả lại, khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng
sách giữ nước vậy".
Hưng Đạo Đại Vương khẳng định nguyên nhân thắng lợi căn bản nhất
của ba cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông, trong đó các cuộc kháng chiến lần
thứ hai và lần thứ ba do ông trực tiếp lãnh đạo là "vua tôi đồng tâm, anh
em hòa mục, cả nước nhà góp sức". Nhưng làm thế nào để có thể cố kết được
cả nước thành một khối thống nhất, để có thể huy động được cao độ sức mạnh của
toàn dân trước những hoàn cảnh vô cùng khó khăn, phức tạp của cuộc chiến như
vậy? Theo ông, điểm mấu chốt, có ý nghĩa quyết định chính là triều đình đã thực
tin vào dân, đã thực sự vì dân trong hoạch định các chủ trương, chính sách và
quyết tâm bảo vệ đến cùng mọi lợi ích chính đáng của nhân dân. Truyền thống
thân dân đã được vương triều Lý đề cao, đã được thể chế hóa trong các hoạt động
của triều đình và quy định của luật pháp. Đến vương triều Trần, truyền thống
này càng được đề cao hơn, nhất là trong bối cảnh Đại Việt phải đương đầu với
các đạo quân xâm lược hùng mạnh nhất thế giới đương thời. Hưng Đạo Đại Vương
Trần Quốc Tuấn và vua tôi nhà Trần đã sớm nhận ra các hạt nhân hợp lý này và
nhào nặn, kết quyện chúng trong một tổng thể thống nhất, hợp lý và hài hòa, tạo
nên những kết quả thật bất ngờ.
Trương Hán Siêu, nhà chiến lược bên cạnh Hưng Đạo Đại Vương những
ngày gian khổ trên chiến tuyến Bạch Đằng, trong "Bạch Đằng giang phú"
nổi tiếng đã nói hộ ông rằng thắng lợi tuyệt vời của quân dân nhà Trần trên
sông Bạch Đằng đâu phải bởi đất hiểm mà chính là ở đức cao. Đức cao ở đây là
Hưng Đạo Đại Vương đã thực sự hiểu dân, tin dân, dựa hẳn vào dân để tiến hành
cuộc chiến tranh nhân dân thực sự. Các nhà chiến lược quân sự đời nay xác nhận
trận Bạch Đằng năm 1288 là "lần đầu tiên trong lịch sử đấu tranh vũ trang
của dân tộc ta, đã xuất hiện hình thái thế trận của dân chúng đánh giặc ở khắp
các xóm làng, kết hợp với thế trận của quân đội dân tộc tiêu diệt địch trong
những trận lớn, một thế trận rộng mà sâu, mạnh mà vững, luôn luôn chủ động,
luôn luôn tiến công, tạo nên sức mạnh to lớn chiến thắng kẻ thù hung bạo".
Đây là thế trận của lòng dân, thế trận của cuộc chiến tranh nhân dân thần thánh
do Hưng Đạo Đại Vương cùng vua tôi, quân dân nhà Trần tạo lập và thành công
trên nền tảng của tư tưởng khoan thư sức dân, lấy dân làm gốc hết sức sáng tạo
và độc đáo dưới thời Trần.
Sức dân - sức mạnh thời đại
Chủ tịch Hồ Chí Minh năm 1941 trở về
Cao Bằng lãnh đạo cách mạng. Người viết cuốn sách "Lịch sử nước ta đặc
biệt đề cao kỳ công hai lần lãnh đạo chiến tranh du kích" (chiến tranh
nhân dân) đại phá Nguyên binh của Trần Hưng Đạo "nghìn thu soi rạng giống
dòng quang vinh". Bài học khoan thư sức dân, lấy dân làm gốc của Hưng Đạo
Đại Vương và vua tôi nhà Trần đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng thật tài
tình trong hai câu kết của cuốn sách: "Dân ta xin nhớ chữ đồng:/ Đồng
tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh". Đấy chính là nguồn sức mạnh làm nên
thành công tuyệt vời của Cách mạng Tháng Tám; của các cuộc kháng chiến chống
Pháp, chống Mỹ, các cuộc chiến tranh bảo vệ toàn vẹn chủ quyền quốc gia lãnh
thổ, lãnh hải; của công cuộc đổi mới xây dựng đất nước "dân giàu, nước
mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh"...
Tất cả đều nhờ ở sức dân, sự đóng góp
của toàn dân, đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh tổng kết: "Dễ trăm lần không
dân cũng chịu/ Khó vạn lần dân liệu cũng xong".
Bài học khoan thư sức dân, lấy dân làm gốc là bài học đặc biệt
thành công của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn và quân dân nhà Trần vẫn còn
nguyên giá trị cho đến ngày nay và mãi về sau./.