Sự phát triển nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên
(Ảnh minh họa)
NỘI DUNG CỐT LÕI TRONG TƯ TƯỞNG CỦA HỒ CHÍ
MINH VỀ ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG
Ngay từ khi chuẩn bị thành lập Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
đặt nền móng cho chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong hàng
loạt tác phẩm, tiêu biểu như: Đường Cách mệnh (năm
1927), Người đặt lên hàng đầu vấn đề Tư cách một người cách
mệnh với 23 điểm căn bản, giải quyết hài hòa ba mối quan hệ:
với mình, với người, với việc…
Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức cách mạng là gốc của người
cách mạng. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí
Minh luôn đặc biệt quan tâm xây dựng đạo đức cách mạng với một hệ thống với những chuẩn mực cụ thể của người cách mạng, của cán
bộ, đảng viên, gắn liền với điều kiện lịch sử cụ thể Việt Nam.
Sau khi giành được chính quyền, trong điều kiện Đảng cầm
quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhắc nhở các cấp ủy đảng, cán bộ, đảng viên phải
giữ gìn phẩm chất đạo đức cách mạng, xác định vị thế của những công bộc của
dân, phục vụ nhân dân, không phải là những “quan cách mạng”. Đặc biệt, năm
1960, tại lễ kỷ niệm 30 năm Ngày thành lập Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tự hào
khẳng định: “Đảng ta là đạo đức, là văn minh”. Di chúc là
di sản cuối cùng của Người để lại, trong đó vấn đề đạo đức cách mạng
được Người nhấn mạnh: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền, mỗi đảng viên
và cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thực sự cần kiệm liêm
chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch vững mạnh, phải
xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”(1).
Chuẩn mực đạo đức cách mạng của người cách
mạng, của cán bộ, đảng viên là nội dung cốt lõi trong tư tưởng của Hồ Chí Minh
về đạo đức cách mạng. Các chuẩn mực này được Hồ Chí Minh khẳng định trong nhiều
tác phẩm, nhiều bài nói, bài viết, trong những bối cảnh, giai đoạn cách mạng
khác nhau, bao gồm những chuẩn mực cơ bản sau: (1) Suốt đời đấu
tranh cho Đảng, cho cách mạng, cho nhân dân, cho dân tộc, cho Tổ quốc. (2)
Trung với nước, hiếu với dân. (3) Cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư. (4)
Nhân, Nghĩa, Dũng, Trí, Tín. (5) Thương yêu con người, sống có tình có nghĩa.
(6) Giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất. (7) Kỷ luật nghiêm minh. (8) Tinh thần
quốc tế trong sáng. (9) Chống chủ nghĩa cá nhân. (10) Học tập suốt đời.
HOÀN THIỆN DẦN CHUẨN MỰC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CỦA
NGƯỜI CÁCH MẠNG, CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN
Quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh, nhận
thức của Đảng ta về chuẩn mực đạo đức cách mạng của
người cách mạng, của cán bộ, đảng viên là một quá trình, từ thấp đến cao, từ
chưa đầy đủ đến đầy đủ, hoàn thiện dần trong suốt hơn 93 năm lãnh đạo cách mạng
Việt Nam
Trong những văn kiện đầu tiên, ngay từ khi
thành lập Đảng, như Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam (thông qua tại
Hội nghị thành lập Đảng, năm 1930), Điều lệ Đảng Cộng sản Đông Dương (thông qua
tại Đại hội lần thứ nhất, năm 1935), Điều
lệ tóm tắt của Đảng (thông qua tại Hội nghị lần thứ
tám Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương, tháng 5/1941),… các phẩm chất, chuẩn
mực đạo đức cách mạng của người cách mạng, của cán bộ, đảng viên đã được Đảng
ta bước đầu nêu trong “Lệ vào Đảng”, trong “Trách nhiệm, Nhiệm vụ của đảng
viên”.
Đến Đại hội II của Đảng (năm 1951), đặc
biệt là nhiệm vụ của đảng viên được ghi trong Điều lệ Đảng, các chuẩn mực này
được đề cập một cách đầy đủ, bao quát hơn.
Giai đoạn cả nước thực hiện hai nhiệm vụ chiến
lược: xây dựng CNXH ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất
nước, trong Điều lệ Đảng do Đại hội III của Đảng (năm 1960), thông
qua đã khẳng định rõ hơn chuẩn mực đạo đức cách mạng của người cách mạng, của cán bộ, đảng
viên: “… Đảng gồm những người giác
ngộ tiên tiến, gương mẫu, dũng cảm và hy sinh nhất trong giai cấp công nhân,
trong nông dân lao động, trí thức cách mạng và các tầng lớp nhân dân lao động
khác, tự nguyện đứng trong hàng ngũ của Đảng mà phấn đấu…”(2).
“Đảng viên phải: Hết lòng hết sức phục vụ
Đảng, phục vụ nhân dân. Đặt lợi ích của Đảng và lợi ích của nhân dân dân lên
trên lợi ích cá nhân. Gương mẫu trong lao động sản xuất, trong công tác, trong
việc chấp hành chính sách của Đảng và Chính phủ, trong việc bảo vệ tài sản của
Nhà nước và của tập thể; thực hành tiết kiệm, tích cực đấu tranh chống lãng
phí, tham ô. Thực hành tự phê bình và phê bình; kiên quyết đấu tranh với mọi tư
tưởng và hành động ở trong Đảng và ngoài Đảng có hại đến lợi ích chung của Đảng,
của cách mạng. Tuyệt đối trung thành và thật thà
với Đảng, không giấu giếm, xuyên tạc sự thật với Đảng” (3).
Ngay sau khi giải phóng hoàn toàn miềm Nam,
thống nhất đất nước, cả nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, chuẩn mực đạo đức cách mạng của
người cách mạng, của cán bộ, đảng viên được được Đại hội IV của Đảng (năm 1976) xác định và
thực hiện trong giai đoạn cách mạng mới là chú
trọng rèn luyện đạo đức cách mạng, kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân và
những tiêu cực, thoái hóa trong Đảng. Cụ thể:
“Đảng viên phải là người có giác
ngộ lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, tuyệt đối trung thành với cách mạng, tự nguyện
suốt đời hy sinh, phấn dấu vì độc lập dân tộc, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa
xã hội và chủ nghĩa cộng sản” (4)
“Đảng viên phải chăm lo xây dựng
Đảng, có ý thức tổ chức và kỷ luật, có tinh thần tự phê bình và phê bình, bảo
vệ Đảng, bảo vệ sự đoàn kết, thống nhất của Đảng” (5);
“Cán bộ, và đảng viên phải lắng
nghe ý kiến và nguyện vọng của quần chúng, kiên quyết chống bệnh quan liêu” (6)
Trước yêu cầu mới của cách mạng, Đại hội V của
Đảng (năm 1981) đặt ra yêu cầu: “Đã là đảng viên thì phải phấn
đấu không mệt mỏi cho lý tưởng, sẵn sàng hy sinh vì lý tưởng. Phải sống trong
sạch; phải là tiêu biểu nhất cho con người mới xã hội chủ nghĩa. Người cộng sản
phải là tấm gương sáng để quần chúng noi theo. Cán bộ, đảng viên... phải là
những chiến sĩ tiên phong, gương mẫu về mọi mặt” (7);
“Đảng viên dù là ở cương vị công
tác nào cũng đều phải là những chiến sỹ cộng sản có lý tưởng và hành động theo
đường lối của Đảng”(8);
“Sự tuyệt đối trung thành với
cách mạng, sự nhất trí với đường lối của Đảng là đòi hỏi hết sức cần thiết đối
với mọi cán bộ của Đảng và Nhà nước. Đối với cán bộ lãnh đạo, ngoài nội dung
đó, tiêu chuẩn chính trị còn phải thể hiện ở trình độ chính trị và sự mẫu mực
về đạo đức xã hội chủ nghĩa, mà điều cần nhấn mạnh là đức tính liêm khiết, sự
thẳng thắn đấu tranh chống tiêu cực; không được đặt lợi ích của cá nhân, của
gia đình và của bạn bè lên trên lợi ích của tập thể và của toàn xã hội; không
đặt lợi ích cục bộ, của địa phương lên trên lợi ích của Nhà nước, của toàn xã
hội”(9) .

Bước vào thời kỳ đổi mới, Đại hội VI của Đảng (năm
1986) xác định: “Công
tác tư tưởng phải hướng vào việc bồi dưỡng phẩm chất, đạo đức mới, nâng cao
tinh thần yêu nước và yêu chủ nghĩa xã hội, tinh thần quốc tế vô sản và tinh
thần quốc tế xã hội chủ nghĩa, khơi dậy ý chí cách mạng của quần chúng” (10) ; “Đảng
viên...phải thường xuyên tự rèn luyện về mọi mặt, thực hiện cần kiệm liêm
chính, chí công vô tư, kịp thời sửa chữa những thiếu sót trong công tác và về
phẩm chất cách mạng; đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chống hoái hóa biến
chất và mọi biểu hiện tiêu cực trong lối sống..., đặt lợi ích của Đảng, của
nhân dân lên trên lợi ích cá nhân”(11).
Trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, Đại hội
VII của Đảng (năm 1991) đã yêu cầu: “Đảng viên...không ngừng học tập, rèn luyện
nâng cao trình độ chính trị, kiến thức, năng lực công tác, phẩm chất đạo đức
cách mạng; đấu tranh chống mọi biểu hiện tiêu cực trong lối sống” (12).
“Tiêu chuẩn cơ bản của cán bộ lãnh đạo trong
giai đoạn hiện nay là: có phẩm chất cách mạng và bản lĩnh chính trị vững vàng,
có kiến thức và năng lực thực hiện đổi mới, biết tổ chức và điều hành công
việc, trung thực, thẳng thắn, có lối sống lành mạnh, có khả năng đoàn kết, có
phong cách dân chủ tập thể, có ý thức tổ chức kỷ luật, nói đi đôi với làm, được
quần chúng tín nhiệm; Khẩn trương xây dựng tiêu chuẩn cụ thể cho từng loại,
từng chức danh cán bộ ở các cấp, các ngành và căn cứ vào đó để đào tạo, bố trí,
sử dụng cán bộ”(13).
Bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, Đại hội VIII của Đảng (năm 1996) yêu cầu: “Cán bộ, đảng viên phải gương mẫu tự rèn luyện, tự phấn đấu nâng cao
đạo đức cách mạng cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư, khắc phục chủ nghĩa cá
nhân” (14). “Mọi cán bộ phải thường xuyên nâng cao trình độ mọi
mặt, rèn luyện, trau dồi phẩm chất chính trị, lòng trung thành với lý tưởng
cách mạng, ý chí kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, ý thức
tổ chức kỷ luật, gương mẫu trong đạo đức và lối sống, kết hợp hài hòa giữa lợi
ích cá nhân và lợi ích chung, khi lợi ích cá nhân mâu thuẫn với lợi ích chung
thì phải đặt lợi ích chung lên trên hết, trước hết”(15).
Thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng,
Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành nhiều nghị quyết quan trọng, qua đó nhiều
chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên tiếp tục được khẳng định, bổ
sung, hoàn thiện nhằm đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Đặc biệt là Nghị quyết số 03-NQ/TW, ngày 18/6/1997 về
chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã
xác định rõ 3 tiêu chuẩn chung của cán bộ trong thời kỳ mới:
“- Có tinh thần yêu nước sâu sắc, tận
tụy phục vụ nhân dân, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
phấn đấu thực hiện có kết quả đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của
Nhà nước.
- Cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư. Không tham nhũng và
kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng. Có ý thức tổ chức kỷ luật. Trung thực,
không cơ hội, gắn bó mật thiết với nhân dân, được nhân dân tín nhiệm.
- Có trình độ hiểu biết về lý luận chính trị, quan điểm,
đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; có trình độ văn hóa,
chuyên môn, đủ năng lực và sức khoẻ để làm việc có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ được giao”(16).
Các tiêu chuẩn đó, có quan hệ mật thiết với nhau. Coi trọng cả đức
và tài, đức là gốc. Ngoài các tiêu chuẩn chung nói trên,
cán bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, đoàn thể nhân dân; cán bộ lãnh đạo lực lượng vũ
trang; cán bộ khoa học, chuyên gia; cán bộ quản lý kinh doanh… còn phải có các
tiêu chuẩn cụ thể phù hợp với từng loại cán bộ.
Trước yêu cầu mới ngày càng cao của sự nghiệp cách mạng,
trong Đảng bộc lộ một số yếu kém, như sự suy thoái về tư tưởng chính trị, tình
trạng tham nhũng, quan liêu, lãng phí của một bộ phận cán bộ, đảng viên diễn
biến ngày càng nghiêm trọng hơn, Hội nghị Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII đã ban
hành Nghị quyết số 10-NQ/TW, ngày 2-2-1999 về “Một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện
nay” xác định: “Cán bộ , đảng
viên phải tự giác rèn luyện đạo đức, lối sống cần kiệm, liêm chính, chí công,
vô tư; gương mẫu giữ gìn phẩm chất người chiến sĩ cộng sản, đề cao tinh thần
đoàn kết, chống chủ nghĩa cá nhân; chấp hành nghiêm Điều lệ Đảng, pháp luật Nhà
nước; đồng thời, chú ý giáo dục, thuyết phục gia đình cùng thực hiện”(17).
Bước sang thế kỷ XXI, từ Đại hội IX đến
Đại hội XIII, Đảng ta tiếp tục khẳng định các chuẩn mực đạo đức cách mạng của
cán bộ, đảng viên đã được xây dựng và thực hiện trong các giai đoạn trước đó,
đồng thời bổ sung, hoàn thiện những chuẩn mực mới, đáp ứng yêu cầu mới của sự
nghiệp cách mạng.
Đại hội IX của Đảng (năm 2001) khẳng
định: “Xây
dựng đội ngũ cán bộ, trước hết là cán bộ lãnh đạo và quản lý ở các cấp, vững
vàng về chính trị, gương mẫu về đạo đức, trong sạch về lối sống, có trí tuệ,
kiến thức và năng lực hoạt động thực tiễn, sáng tạo, gắn bó với nhân dân”(18);
“Cán bộ, đảng viên ở bất cứ
cương vị nào đều phải nghiêm chỉnh chấp hành Cương lĩnh, điều lệ, nghị quyết
của Đảng và pháp luật của nhà nước. Thi hành kỷ luật nghiêm khắc mọi vi phạm về
nguyên tắc, nhất là đối với những vấn đề về quan điểm, đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng”(19);
Đại hội X của Đảng (năm 2006), yêu
cầu: “Cán bộ, đảng viên phải nâng cao
tinh thần trách nhiệm trước Đảng và nhân dân, thật sự tiên phong, gương mẫu, đi
đầu trong mọi công việc; xử lý hài hòa các lợi ích, đặt lợi ích của Tổ quốc,
của nhân dân lên trên hết”(20).
Đối với đội ngũ đảng viên, “Xây dựng đội ngũ đảng viên thật sự tiên phong, gương mẫu,
có phẩm chất, đạo đức cách mạng, có ý thức tổ chức kỷ luật và năng lực hoàn
thành nhiệm vụ; kiên định lập trường giai cấp công nhân, phấn đấu cho mục tiêu
lý tưởng của Đảng; năng động, sáng tạo, vững vàng trước mọi khó khăn, thử
thách”(21). Để nâng cao chất lượng đảng viên, Đại hội X của Đảng
nhấn mạnh các yêu cầu cụ thể về tư tưởng chính trị, trình độ năng lực, đặc biệt
là phẩm chất đạo đức, lối sống: “Có tinh thần trách nhiệm cao,
gương mẫu, đi đầu trong công tác; xử lý hài hòa các lợi ích, đặt lợi ích của
Đảng, của Tổ quốc lên trên hết. Liên hệ mật thiết với nhân dân, tôn trọng và
bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân. Có lối sống trong sạch, lành mạnh, có kỷ
cương, kỷ luật. Không quan liêu, tham nhũng, lãng phí và kiên quyết đấu tranh
phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các tiêu cực khác”(22).
Đối với đội ngũ cán bộ, Đại hội X của Đảng xác định: “Cán bộ phải là người có phẩm
chất chính trị tốt, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, hết lòng phấn
đấu vì lợi ích của nhân dân, của dân tộc; có bản lĩnh chính trị vững vàng,
không dao dộng trước những khó khăn, thử thách; có năng lực hoàn thành nhiệm vụ
được giao; có nhân cách và lối sống mẫu mực, trong sáng; có ý thức tổ chức kỷ
luật cao, tôn trọng tập thể, gắn bó với nhân dân”(23). “Tiếp tục đổi mới công tác cán bộ: Mục tiêu chung
là xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức, lối
sống lành mạnh, không quan liêu, tham nhũng, lãng phí; có tư duy đổi mới, sáng
tạo, có kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng các yêu cầu của thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; có tinh thần đoàn kết, hợp tác, ý thức tổ
chức, kỷ luật cao và phong cách làm việc khoa học, tôn trọng pháp luật, gắn bó
với nhân dân, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm”(24).
Nghị quyết các kỳ Đại hội của Đảng được cụ thể hóa thông qua
nghị quyết, chỉ thị, kết luận, quy định, kế
hoạch của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và hướng dẫn của
các cơ quan Trung ương, đặc biệt là các văn bản về công tác xây dựng, chỉnh đốn
Đảng và hệ thống chính trị, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh. Thông qua đó, nhiều chuẩn mực, phẩm chất đạo đức cách
mạng được hệ thống hóa, cụ thể hóa.
Trong quá trình xây dựng chuẩn mực đạo đức
thời kỳ đổi mới, Chỉ thị số 06-CT/TW, ngày 07/11/2006 của Bộ Chính trị về tổ
chức thực hiện Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh” có ý nghĩa rất quan trọng. Tại Chỉ thị số 06-CT/TW, một nội dung được Đảng ta đề ra là “các cơ quan, đơn vị xây dựng tiêu chuẩn đạo đức, lối sống cho
cán bộ, đảng viên, công chức để phấn đấu thực hiện phù hợp với tình hình từng
cơ quan, đơn vị”. Ban Chỉ đạo Trung ương Cuộc
vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” ban
hành Hướng dẫn số 09-HD/BCĐTW, ngày 20/6/2007 về những chuẩn mực đạo đức theo
tấm gương Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong
nhiệm kỳ Đại hội X của Đảng, đặc biệt là sau khi Chỉ thị số 06-CT/TW được ban hành, một số tỉnh, thành, địa phương đã xây dựng các quy định,
quy chế, quy ước cụ thể trong thực hiện các tiêu chuẩn đạo đức theo yêu cầu của
Cuộc vận động.
Đại hội XI của Đảng (năm 2011) khẳng
định: “Rèn luyện phẩm chất đạo đức
cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân…Mỗi cán bộ, đảng viên không ngừng tu dưỡng,
rèn luyện đạo đức cách mạng, thực sự là một tấm gương về phẩm chất đạo đức, lối
sống. Cán bộ cấp trên phải gương mẫu trước cán bộ cấp dưới, đảng viên và nhân
dân. Cán bộ, đảng viên phải nêu cao tinh thần trách nhiệm trước Tổ quốc, trước
Đảng và nhân dân, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân… Định kỳ
lấy ý kiến nhận xét của nhân dân về tư cách, đạo đức của cán bộ, đảng viên. Xử
lý nghiêm mọi cán bộ, đảng viên vi phạm về trách nhiệm, phẩm chất đạo đức, lối
sống”(25).
Sau Đại hội XI của Đảng, việc xây dựng và thực hiện chuẩn
mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên có sự gắn bó chặt chẽ với các chỉ
thị, quy định của Đảng, đặc biệt là Chỉ thị số 03-CT/TW, ngày 14/5/2011 của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập
và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh (Chỉ thị số 03-CT/TW)
và Quy định số 101-QÐ/TW, ngày 7/6/2012
của Ban Bí thư về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ
lãnh đạo chủ chốt các cấp (Quy định số 101-QÐ/TW), trên cơ sở đó việc
xây dựng, bổ sung chuẩn đạo đức của cán bộ, đảng viên có sự chuyển biến mạnh
mẽ.
Chỉ thị số 03-CT/TW yêu cầu: “Tiếp
tục xây dựng và tổ chức thực hiện những chuẩn mực đạo đức theo tư tưởng và tấm
gương Hồ Chí Minh, phù hợp với đặc điểm hoạt động của từng ngành, địa phương,
cơ quan, đơn vị trong giai đoạn hiện nay. Quy định rõ trách nhiệm tự giác đi
đầu, gương mẫu của cán bộ lãnh đạo chủ chốt, người đứng đầu các cấp, của cán
bộ, đảng viên. Xây dựng cơ chế kiểm tra, giám sát của tổ chức đảng và nhân dân
đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên”…
Theo Quy định số 101-QÐ/TW, mỗi cán bộ, đảng viên phải tích cực học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh, cán bộ có chức vụ càng cao càng phải gương mẫu về tư
tưởng chính trị; đạo đức, lối sống, tác phong; tự phê bình, phê bình; quan hệ
với nhân dân; trách nhiệm trong công tác; ý thức tổ chức kỷ luật; đoàn kết nội
bộ được quy định rõ, đòi hỏi cán bộ, đảng viên có trách nhiệm nêu gương việc
thực hiện
Trong nhiệm kỳ Đại hội XI, Đảng ta thẳng thắn nhìn nhận công
tác xây dựng Đảng vẫn còn không ít hạn chế, yếu kém, thậm chí có những yếu kém,
khuyết điểm kéo dài qua nhiều nhiệm kỳ chậm được khắc phục, làm giảm sút lòng
tin của nhân dân đối với Đảng; nếu không được sửa chữa sẽ là thách thức đối với
vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ. Một bộ phận không nhỏ cán
bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả
một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với
những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân
ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục
bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc... Trước tình hình đó, Hội
nghị Trung ương 4 đã ban hành Nghị quyết số 12-NQ/TW, ngày 16/01/2012 “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, trong đó
nhấn mạnh vấn đề xây dựng đạo đức trong Đảng.
Trong các nhiệm kỳ Đại hội trước, Đảng đều
thống nhất mục tiêu xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đến Đại
hội XII của Đảng (năm 2016) bổ sung mục tiêu xây dựng Đảng về đạo đức: “Tăng
cường rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội,
thực dụng. Tập trung thực hiện mục tiêu: xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về
chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức”(26). Đây là bước phát triển mới tư
duy lý luận về xây dựng Đảng phù hợp với yêu cầu khách quan trong giai đoạn
mới, củng cố niềm tin của Nhân dân đối với Đảng.
Đại hội XII của Đảng khẳng định: “Xây dựng và thực hiện tốt các
quy định để phát huy vai trò gương mẫu trong rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối
sống, phong cách, tác phong, lề lối công tác của cán bộ, đảng viên, nhất là cán
bộ lãnh đạo các cấp, người đứng dầu các cơ quan, đơn vị” (27).
Ngày 15/5/2016,
Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 05-CT/TW về “Đẩy
mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh (Chỉ thị số 05-CT/TW). Chỉ thị số 05-CT/TW đặt ra nhiệm vụ tiếp tục xây dựng,
hoàn thiện chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, đạo đức công vụ ở từng địa phương, cơ
quan, đơn vị với phương châm “sát chức năng, nhiệm vụ, ngắn gọn, dễ nhớ, dễ
thực hiện và đánh giá việc thực hiện”. Chỉ thị số 05-CT/TW xác định nội dung
chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên là “tuyệt đối trung thành, kiên định lý tưởng cách
mạng, đặt lợi ích của Đảng, của đất nước, dân tộc lên trên tất cả; hết lòng,
hết sức phục vụ Tổ quốc, phụng sự nhân dân, tận trung với nước, tận hiếu với
dân; hết lòng yêu thương đồng bào, đồng chí, yêu thương con người; cần, kiệm,
liêm chính, chí công vô tư, thật sự là công bộc của nhân dân, kiên quyết chống
chủ nghĩa cá nhân, cơ hội,...”.
Ngày 30/10/2016, Ban Chấp hành
Trung ương ban hành Nghị quyết số 04-NQ/TW về “Tăng cường xây dựng,
chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá"
trong nội bộ”, yêu cầu: “Xây
dựng và thực hiện có hiệu quả nội dung xây dựng Đảng về đạo đức, trong đó
chú trọng xây dựng hệ thống chuẩn mực các mối quan hệ của cán bộ, đảng viên với
tổ chức đảng và với nhân dân. Hằng năm, người đứng đầu và từng cán bộ, đảng
viên có cam kết rèn luyện, giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống, không suy
thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; các cấp ủy, tổ chức đảng kiểm tra, giám
sát việc thực hiện cam kết của cán bộ, đảng viên ở địa phương, cơ quan, đơn vị
mình”. Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày
19/5/2018 của Hội nghị Trung ương 7 về “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ
các cấp, nhất là cấp chiến lược đầy đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm
nhiệm vụ”, xác định:
“Tăng cường
công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ
cán bộ, đảng viên và thế hệ trẻ, trong đó chú trọng nội dung xây dựng Đảng về
đạo đức, truyền thống lịch sử, văn hoá của dân tộc; kết hợp chặt chẽ, hiệu quả
giữa đào tạo với rèn luyện trong thực tiễn và đẩy mạnh học tập, làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Thực hiện nghiêm túc chế độ học tập,
bồi dưỡng lý luận chính trị và cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, nhất là cán
bộ trẻ được đào tạo ở nước ngoài”. Ban Chấp hành Trung ương ban
hành Quy định số 08-QĐi/TW, ngày 25/10/2018 về “Trách nhiệm nêu gương của cán
bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên
Ban Chấp hành Trung ương”. Cán bộ, đảng viên giữ chức vụ càng cao càng phải
gương mẫu nêu gương.
Đại hội XIII của Đảng (năm
2021) yêu cầu: “Nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện các chuẩn mực đạo đức cách mạng
phù hợp với điều kiện mới và truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc để làm cơ
sở cho cán bộ, đảng viên tự giác tu dưỡng, rèn luyện, tự điều chỉnh
hành vi ứng xử trong công việc hàng ngày. Đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách
mạng, làm cho mỗi cán bộ, đảng viên thấy rõ bổn phận và trách nhiệm của mình,
luôn vững vàng trước mọi khó khăn, thách thức và không bị cám dỗ bởi vật chất,
tiền tài, danh vọng; đấu tranh có hiệu quả với mọi biểu hiện của chủ nghĩa
cá nhân, bệnh quan liêu, cơ hội, cục bộ, bè phái, mất đoàn kết nội
bộ. Nâng cao ý thức tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng suốt đời, thường
xuyên "tự soi", "tự sửa" và nêu cao danh dự, lòng tự trọng
của người đảng viên” (28). “Tiếp
tục xây dựng đội ngũ cán bộ thật sự "trọng dân, gần dân, tin dân, hiểu
dân, học dân, dựa vào dân và có trách nhiệm với dân"(29).
Sau Đại hội XIII của Đảng, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ
Chính trị ban hành nhiều nghị quyết, kết luận, chỉ thị, quy định về công tác
xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
Kết luận số 01-KL/TW, ngày 18/5/2021 của Bộ Chính
trị về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị về “Đẩy
mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, khẳng định: “Không ngừng học tập, tu dưỡng, rèn luyện, trau dồi đạo đức cách
mạng, mẫu mực về nhân cách, lối sống; cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư;
trung thực, giản dị, thẳng thắn, chân thành; không tham nhũng, không bị chi
phối bởi lợi ích nhóm, không để người nhà, người thân lợi dụng vị trí công tác
để vụ lợi. Nghiêm túc tự phê bình và phê bình, thấy đúng phải
cương quyết bảo vệ, thấy sai phải quyết liệt đấu tranh”.
Ngày 25/10/2021, Ban Chấp hành Trung ương ban
hành Kết luận số 21-KL/TW về “Đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết
ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá"”, xác định: “Chú trọng xây dựng Đảng
về đạo đức, đề cao trách nhiệm nêu gương, ý thức tự giác tu dưỡng, rèn luyện
đạo đức của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý và người đứng
đầu các cấp; thực hiện nghiêm các quy định nêu gương của Đảng, quy định của Ban
Chấp hành Trung ương về những điều đảng viên không được làm, cán bộ giữ cương
vị càng cao càng phải tiên phong, gương mẫu. Nghiên cứu, bổ sung hoàn thiện
chuẩn mực đạo đức cách mạng của đảng viên, đạo đức công vụ, chuẩn mực, giá trị
con người Việt Nam phù hợp với truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc làm cơ
sở cho cán bộ, đảng viên, đội ngũ công chức, viên chức rèn luyện, nâng cao bản
lĩnh chính trị, ý thức sâu sắc hơn trách nhiệm của mình trước Đảng và nhân dân.
Kiên quyết chống biểu hiện bè phái, cục bộ địa phương, "lợi ích nhóm"”.
Ngày 25/10/2021, Ban Chấp hành Trung ương ban hành Quy định số 37-QĐ/TW về những
điều đảng viên không được làm. Ngày
16/6/2022, Ban Chấp hành Trung ương ban hành Nghị quyết số
21-NQ/TW về “Tăng cường củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở đảng và nâng cao
chất lương đội ngũ đảng viên trong giai đoạn mới”, yêu cầu: “Nghiên
cứu, bổ sung, hoàn thiện chuẩn mực đạo đức cách mạng phù hợp với điều kiện mới
và truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc, làm cơ sở cho cán bộ, đảng viên tự
giác tu dưỡng, rèn luyện. Đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng, nâng cao ý thức
tu dưỡng, rèn luyện về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống,
"tự soi", "tự sửa", đề cao danh dự, lòng tự trọng của đảng
viên. Phát huy vai trò của cơ quan thông tấn, báo chí trong công tác thông tin,
tuyên truyền, giới thiệu tấm gương đảng viên tiêu biểu”.
Đại hội XIII của Đảng đã bổ sung, nhấn mạnh tầm quan trọng
và đặt lên hàng đầu vấn đề “Nêu cao tinh thần tự giác tu dưỡng, rèn luyện đạo
đức của cán bộ, đảng viên”. Bởi, xây dựng Đảng về đạo đức phải được bắt đầu từ
việc giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho từng cán bộ, đảng viên của Đảng.
Đạo đức của Đảng được xây dựng trên đạo đức của mỗi cán bộ, đảng viên. Chính vì
vậy, sự tự tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng của mỗi cán bộ, đảng viên là
vô cùng quan trọng. Đặc biệt, Đảng đã đưa nội dung “Nghiên cứu, bổ sung, hoàn
thiện các giá trị đạo đức cách mạng theo tinh thần “Đảng ta là đạo đức, là văn
minh” cho phù hợp với điều kiện mới và truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân
tộc. “Xây dựng các chuẩn mực đạo đức cách mạng” là một giải pháp mới để xây
dựng Đảng về đạo đức. Đại hội XIII của Đảng đã đề cập và nhấn mạnh hầu hết tất
cả các mặt của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng về đạo đức, với 6 giải pháp
trọng tâm là: 1) Tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên;
2) Thực hiện nghiêm quy định nêu gương; 3) Bổ sung, hoàn thiện các giá trị và
xây dựng chuẩn mực đạo đức cách mạng; 4) Giáo dục đạo đức cách mạng; 5) Đấu
tranh chống quan điểm, hành vi phản đạo đức, phi đạo đức; 6) Khen thưởng, kỷ
luật cán bộ, đảng viên.
Có thể khẳng định, dù ở giai đoạn cách mạng nào, Đảng ta cũng luôn
đặc biệt quan tâm, coi trọng việc xây dựng Đảng về đạo đức. Các chuẩn mực đạo
đức cách mạng của cán bộ, đảng viên được Đảng ta nhấn mạnh là: thật sự tiên phong, gương mẫu; kiên định,
tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng; hết lòng hết sức phụng sự Tổ quốc,
phục vụ nhân dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì mục tiêu cách mạng; gắn bó mật
thiết với nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, của dân tộc; chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều
lệ Đảng, các nghị quyết, kết luận, chỉ thị, quy định… của Đảng và pháp luật,
chính sách của Nhà nước; có phẩm
chất, đạo đức cách mạng, có nhân cách và lối sống mẫu mực, lành mạnh, trong
sáng, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, bản lĩnh, kiên định, đoàn kết, kỷ
cương, trung thực, trách nhiệm; thường xuyên “tự
soi”, “tự sửa”, nêu cao danh dự, lòng tự trọng; có năng
lực hoàn thành nhiệm vụ, năng động, sáng tạo, vững vàng trước mọi khó khăn, thử
thách; kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân và mọi biểu hiện, hành vi
tiêu cực; học tập, rèn luyện không ngừng...
PGS.TS. Vũ Văn Phúc
Phó Chủ tịch Hội đồng Khoa học
các cơ quan Đảng Trung ương,
Nguyên Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản
-----------------------
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, t. 15,
tr.611-612.
(2) (3) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2002, t.21, tr.777, 784-785.
(4) (5) (6) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, H, 2004, t.37, tr.970,
970, 972.
(7) (8) (9) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, H, 2005, t. 43, tr.291,
330, 339.
(10) (11) Đảng Cộng
sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, H,
2006, t. 47, tr.808 – 809, 937-938.
(12) (13) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, H, 2007, t. 51, tr.260,
127.
(14) (15) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, H, 2015, t. 55, tr.417,
431.
(16) Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết số 03-NQ/TW, ngày
18/6/1997 về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước.
(17) Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày
02/02/1999 Hội nghị Trung ương 6 (lần 2), khóa VIII về một số vấn đề cơ bản và
cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay.
(18) (19) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, H, 2016, t. 60, tr.155,
223.
(20) (21) (22) (23) (24) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, H, 2018, t. 65, tr. 339,
225, 350, 228, 344.
(25) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia
Sự thật, H, 2011, tr. 257-258.
(26) (27) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb.
Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2016, tr. 202, 203.
(28) (29) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb.
Chính trị quốc gia Sự thật, H,