Từ khi thành lập đến nay, Đảng ta luôn coi
công tác tư tưởng là lĩnh vực trọng yếu để xây dựng, bồi đắp, phát triển chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; giữ vai trò giáo dục, tuyên truyền,
vận động, tổ chức nhân dân thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương của Đảng
và chính sách, pháp luật Nhà nước.
Công tác tư tưởng đã tích cực góp phần trực
tiếp cho tổng thể công tác xây dựng Đảng. Công tác xây dựng Đảng được tiến hành
trên tất cả các lĩnh vực về tư tưởng, chính trị, đạo đức và tổ chức, cán bộ;
gắn chặt nhiệm vụ chỉnh đốn, xây dựng Đảng với cuộc đấu tranh phòng chống tham
nhũng, lãng phí, chống suy thoái về tư tướng, chính trị, đạo đức, lối sống của
cán bộ, đảng viên.
Khi tập trung cho nhiệm vụ nói
trên, công tác xây dựng Đảng về tư tưởng đã chú trọng đồng thời cả bốn nội
dung: tư tưởng, chính trị, đạo đức và tổ chức, cán bộ trong hoạt động xây dựng
Đảng, trong đó, đặc biệt tập trung gắn với việc đẩy mạnh học tập và làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Để thực hiện nhiệm vụ này, công tác tư tưởng
đã triển khai các giải pháp lớn như: Trên cơ sở các kết quả mới trong nghiên
cứu lý luận đã tổ chức việc học tập, vận dụng những nhận thức mới về chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho cán bộ, đảng viên và nhân dân; xây dựng
và thực hiện cơ chế giám sát đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên. Có chính
sách bảo đảm việc sử dụng các sản phẩm, giá trị văn hoá, văn nghệ trong hoạt động
tư tưởng, nâng cao hiệu quả giáo dục đảng viên; triển khai thường xuyên, bảo
đảm thực chất, hiệu quả phương châm tự phê bình và phê bình, “xây” và “chống”
trong sinh hoạt Đảng, chú trọng nêu gương tốt và phê phán các biểu hiện xấu
trong công tác xây dựng Đảng...
Thời gian qua, dưới sự lãnh
đạo, chỉ đạo trực tiếp của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, cùng với sự chủ động, tích
cực và trách nhiệm của đội ngũ cán bộ làm công tác tư tưởng, việc triển khai
trên thực tế về công tác tư tưởng đã đạt được nhiều thành quả đáng khích lệ.
Tuy nhiên, công tác tư tưởng cũng còn nhiều hạn chế.
Một là, chưa thống nhất trong nhận
thức cũng như giữa nhận thức và tổ chức thực hiện.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất chăm lo
đến công tác giáo dục chính trị tư tưởng, bởi: “Trong Đảng và ngoài Đảng có
nhận rõ tình hình mới, hiểu rõ nhiệm vụ mới thì tư tưởng mới thống nhất, tư
tưởng thống nhất thì hành động mới thống nhất”(1); “Lãnh đạo
quan trọng nhất là lãnh đạo tư tưởng, phải hiểu tư tưởng của mỗi cán bộ để giúp
đỡ thiết thực trong công tác; vì tư tưởng thông suốt thì làm tốt, tư tưởng
nhùng nhằng thì không làm được việc”(2).
Trong mọi giai đoạn cách mạng, Đảng ta luôn
đặt ra yêu cầu rất cao đối với công tác tư tưởng; xác định rõ “Công tác tư
tưởng là nhiệm vụ của toàn Đảng, của tất cả đảng viên, trước hết là cấp uỷ các
cấp và đồng chí bí thư cấp uỷ, của cả hệ thống chính trị với sự tham gia, đóng
góp của nhân dân, trong đó, lực lượng nòng cốt là đội ngũ chuyên trách làm công
tác tư tưởng, lí luận...”(3).
Tuy nhiên, trên thực tế, “Công tác tư tưởng có
nơi, có lúc chưa thực sự được cấp ủy coi trọng, chưa kịp thời, tính thuyết phục
chưa cao”(4); “một số cấp ủy, chính quyền chưa thực sự coi trọng
công tác lý luận, công tác giáo dục lý luận chính trị”(5), dẫn đến
tình trạng ở nhiều nơi, công tác tư tưởng “được” cấp ủy “khoán trắng” cho ban
tuyên giáo - coi đó là chức năng, nhiệm vụ mà ban tuyên giáo phải đảm nhận và
thực thi. Thực tế ở không ít nơi, khi tổng kết - đánh giá, nếu công tác tư
tưởng đạt kết quả tốt, tạo được hiệu ứng tích cực trong xã hội thì thành tích
đó “mặc nhiên” thuộc về sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng hướng, kịp thời của cấp ủy;
khi công tác tư tưởng còn hạn chế, không đạt kết quả tốt, thì “lỗi trách nhiệm”
lại thuộc về ban tuyên giáo.
Hai là, phương thức truyền đạt thông tin của công tác tư tưởng
chưa thực sự đổi mới.
Phương thức truyền đạt thông
tin hiệu quả là nền tảng cho mọi hoạt động của đời sống và công việc. Đó không
chỉ đơn giản là việc chia sẻ những ý tưởng của chủ thể với người khác mà quan
trọng hơn là chia sẻ những góc nhìn và tạo mối liên hệ với mọi người xung quanh. Phương
thức truyền đạt thông tin hiệu quả vừa tiết kiệm được thời gian, vừa đạt hiệu
quả giao tiếp sẽ mang lại lợi ích lớn hơn trong cuộc sống cũng như công việc.
Đối với công tác tư tưởng, phương thức truyền đạt thông tin chính là phương
tiện quan trọng để đưa quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước đến với hiện thực xã hội; tham gia xây dựng, bảo vệ nền
tảng tư tưởng của Đảng; thường xuyên tương tác với cán bộ, đảng
viên và các tầng lớp nhân dân.
Tuy nhiên, xét trên nhiều khía cạnh, phương
thức thông tin của công tác tư tưởng ở nước ta còn có những bất cập. “Phạm vi
tác động, ảnh hưởng của công tác tư tưởng có dấu hiệu bị thu hẹp”, “Nội dung,
phương pháp công tác tư tưởng chậm đổi mới, công tác tư tưởng trở nên lạc hậu
so với yêu cầu của thực tiễn trong tình hình mới”(6). “Công tác
thông tin, tuyên truyền một số chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước chưa phong phú, thường xuyên, kịp thời, chưa đáp ứng được sự
mong đợi của nhân dân”(7).
Theo chúng tôi, một trong những căn nguyên
chính dẫn đến sự lạc hậu, bất cập nêu trên là do phương thức truyền đạt thông
tin trong công tác tư tưởng ở nước ta hiện nay vẫn gần giống với những năm
trước đổi mới: chủ yếu cung cấp những thông tin mà chủ thể có, chứ chưa cung
cấp những thông tin mà xã hội cần. Cơ chế bao cấp trước
đổi mới không chỉ bao trùm cả trong môi trường sống và làm việc, mà còn thể hiện
rõ cả trong công tác tưởng. Tư tưởng, nhận thức và suy nghĩ của cán bộ, đảng
viên là đã có cấp trên (ngành Công tác tư tưởng - văn hóa của Đảng) chăm lo và
định hướng. Do đó, trong tâm thế của cán bộ, đảng viên chỉ cần tiếp nhận những
tư tưởng, định hướng, nhận thức từ trên đưa xuống, “có sao dùng vậy”, không đòi
hỏi nhiều hơn. Điều này dẫn đến tình trạng, đội ngũ những người làm công tác tư
tưởng cũng chỉ cần cung cấp những thông tin mà mình có, không cần thiết phải
tìm hiểu, mở rộng thông tin.
Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần
thứ tư, khi thông tin đa chiều liên tục được cập nhật, phông kiến thức và thông
tin của cán bộ, đảng viên rất đa dạng, phong phú; đối tượng tiếp nhận luôn có
tâm thế và nhu cầu được biết nhiều thông tin hơn... Điều này đặt ra yêu cầu và
đòi hỏi người đi truyền đạt thông tin phải không ngừng chủ động cập nhật, khai
thác, mở rộng, chọn lọc thông tin; tiếp cận, tham khảo các nguồn thông tin khác
nhau... Nói khác đi là trên nền tảng “gốc” và định hướng cơ bản, chủ thể truyền
đạt phải cung cấp những thông tin mà xã hội cần, chứ không chỉ cung cấp những
thông tin mà mình có. Nếu không thì chính chủ thể truyền đạt lại trở nên lạc
hậu hơn so với đối tượng tiếp nhận thông tin.
Ba là, về cơ bản, phương thức tư duy trong công tác tư tưởng vẫn theo
cách cũ, lối mòn.
Đảng ta đã nhấn mạnh: “Cuộc Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư yêu cầu phải đổi mới tư duy về quản lý kinh tế, quản lý xã
hội, xây dựng, hoàn thiện thể chế cho phù hợp. Cần có cách tiếp cận mở, sáng
tạo, cho thí điểm đối với những vấn đề thực tiễn mới đặt ra, tạo mọi thuận lợi
cho đổi mới sáng tạo”(8).
Trước đây, “mặt bằng” tư duy cơ bản vận hành
theo số lượng, tuần tự, thứ bậc, dẫn đến phương thức hoạt động chủ
yếu là theo hình thức, quán tính. Vì vậy, các hoạt động, nhất là tư duy trong
công tác tư tưởng thường là theo kinh nghiệm, thói quen, thậm chí là cảm tính, tức
là theo tính thường biến của tư duy. Trong bối
cảnh hiện nay, sự bùng nổ của công nghệ số và cuộc Cách mạng công nghiệp lần
thứ tư đã đưa đến những “bản chất mới” cho quá trình phát triển. Các hoạt động
của con người đều phải tiệm cận, thích ứng với tính phi truyền thống,
linh hoạt hoá, trí tuệ hóa. Theo đó, phương thức tư duy của công tác tư
tưởng cũng phải đổi mới theo phương thức: chất lượng, không tuần tự,
không thứ bậc, dám nghĩ khác và làm khác... Có như vậy chúng ta mới tránh được sự lạc hậu và
khắc phục được những hạn chế, bất cập trong giảng dạy lý luận chính trị. Điều
này đúng với tư tưởng của Ph.Ăngghen về sự cần thiết phải bổ sung, làm mới và
phát triển lý luận mác-xít: “Lý luận của chúng tôi là lý luận của sự phát
triển, chứ không phải là một giáo điều mà người ta phải học thuộc lòng và lắp
lại một cách máy móc”(9).
Bốn là, công tác tư tưởng vẫn chưa được quy trình hóa.
Để đảm bảo được sự vận hành thông suốt, đúng
định hướng và mang lại hiệu quả cao thì bất cứ một loại hình hoạt động xã hội
nào cũng cần phải xây dựng được quy trình tác nghiệp cho chính nó. Đây cũng là
sự cần thiết phải có quy trình hóa trong bất cứ hoạt động xã hội nào. Công tác
tư tưởng không là ngoại lệ, cũng phải được quy trình hóa, tức là phải thiết
lập được quy trình mang tính chuẩn mực trong hoạt động.
|
Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ
thăm và làm việc tại Trung tâm Dữ liệu quốc gia về dân cư, Bộ Công an_Ảnh:
TTXVN
|
Quy trình hóa trong công tác tư tưởng là quá
trình xác định, lựa chọn và tạo dựng được những yếu tố, thao tác, tiêu
chí, trình tự các bước thực hiện tác nghiệp tối
thiểu và bắt buộc mà những cá nhân hay tổ chức thực thi công tác tư tưởng
phải tuân thủ. Điều này giúp công tác tư tưởng được thực hiện thống
nhất, hạn chế các khác biệt có thể gây ra những hệ quả không mong
muốn.
Từ cách tiếp cận của mình,
chúng tôi cho rằng, quy trình hóa công tác tư tưởng ở nước ta hiện nay phải hiện thực hóa được công
thức “6T”: Tiên phong - Trí tuệ - Trúng - Thiết thực - Thuyết phục - Tiên tiến. Tiên phong là
không bao giờ được không lạc hậu với thời cuộc; phải luôn đi đầu, định hướng,
dẫn đường cho cán bộ, đảng viên và nhân dân biết phát huy lợi thế và thành quả
đã có, vượt qua khó khăn thách thức, tạo sự thống nhất trong Đảng, đồng thuận
trong xã hội. Trí tuệ là phải nắm được đặc điểm thời đại và
dân tộc, biết phân tích, thâu tóm được bản chất đích thực vấn đề đặt ra, qua đó
đề xuất giải pháp thiết thực, hữu hiệu để giải quyết. Trúng là
phải bao hàm được cả trên bình diện không gian và thời gian. Trên bình diện
không gian là phải phản ánh đúng sự thật về sự việc, sự kiện xảy ra; trên bình
diện thời gian là phải thông tin nhanh chóng, kịp thời, không bị chậm trễ, đi
sau, “chạy theo”. Thiết thực là luôn phải bám sát thực tiễn,
sát hợp với thực tiện để nắm bắt thực tiễn, phục vụ nhu cầu của thực tiễn;
không nên và không được viễn vông, xa rời thực tiễn. Thuyết phục là
phải nắm được tâm lý, đi vào lòng người, không áp đặt, cưỡng cầu một chiều;
không ngoa ngôn và cũng không ngụy ngôn. Tiên tiến là phải ứng
dụng và sử dụng thành thạo những thành quả của cuộc Cách mạng công nghiệp lần
thứ tư, đặc biệt là internet, mạng xã hội vào quá trình hoạt động, tác nghiệp;
biến những ưu thế tiên tiến đó thành lợi thế, hành trang nội tại, không thể
thiếu trong “nghề” tuyên giáo.

Trên thực tế, trong bối cảnh hiện nay, công
tác tư tưởng của chúng ta vẫn chưa đạt được công thức “6T”. Đây cũng là những
bất cập mà Đảng ta đã chỉ ra: “Công tác tư tưởng còn thiếu sắc
bén, thiếu sức thuyết phục, tính chiến đấu còn hạn chế, chưa sát thực tiễn và
chưa linh hoạt; chưa làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng và đấu tranh
chống chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng cơ hội, những quan điểm mơ hồ, sai trái…”(10).
Năm là, còn có những bất cập trong việc đào tạo đội
ngũ cán bộ làm công tác tư tưởng.
Đảng ta xác định: “Xây dựng và
phát triển đội ngũ cán bộ chuyên trách, tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, kĩ
thuật cho công tác tư tưởng theo hướng hiện đại, đáp ứng yêu cầu của hoạt động
tư tưởng trước những đòi hỏi mới trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Khẩn
trương xây dựng quy hoạch đội ngũ cán bộ làm công tác tư tưởng đến năm 2020 từ
Trung ương đến cơ sở, cả cán bộ cấp chiến lược, các chuyên gia đầu ngành, đội
ngũ kế cận và cán bộ trẻ. Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng, có chế độ,
chính sách đãi ngộ thoả đáng đối với đội ngũ này”(11).
Tuy nhiên, trên thực tế, chúng ta vẫn chưa
hiện thực hóa được bao nhiêu so với yêu cầu của Đảng. Vẫn còn quan niệm cho
rằng, chỉ có thể bồi dưỡng chứ không thể đào tạo được đội ngũ làm công tác tư
tưởng. Hiện nay, Học viện Báo chí và Tuyên truyền có mở chuyên ngành cử nhân về
quản lý tư tưởng - văn hóa. Song, kiến thức được trang bị của các lớp cử nhân
này lại thiên nhiều hơn về công tác tư tưởng dưới góc độ quản lý nhà nước. Việc
trang bị kiến thức, kỹ năng về công tác tư tưởng - với tư cách là một loại hình
công tác xây dựng Đảng có nội hàm đặc thù - vẫn còn bất cập, chưa đáp ứng được
yêu cầu, đòi hỏi của bối cảnh mới./.
PGS. TS. NGÔ ĐÌNH XÂY
Học viện Báo chí và Tuyên
truyền
____________________
(1) (2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc
gia, H, 2000, t.7, tr.319, 466.
(3) (6) (10) (11) Nghị quyết số 16-NQ/TW, ngày
1/8/2007 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) về “Công tác tư tưởng, lý
luận và báo chí trước yêu cầu mới”.
(4) (7) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, t.I,
tr.90, 90-91.
(5) Nghị quyết số 37-NQ/TW, ngày 9/10/2014 của
Bộ Chính trị về “Công tác lý luận và định hướng nghiên cứu đến năm 2030”.
(8) Nghị quyết số 52-NQ/TW, ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị
về “Một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp
lần thứ tư”.
(9) C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H,
1999, t.36, tr.796.